Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), năm 2023, kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt 3,38 tỷ USD, giảm 21,7% so với năm 2022. Tỷ trọng tôm trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2023 giảm cả về lượng và trị giá so với năm 2022. Nguyên nhân là do nhu cầu thị trường thế giới giảm mạnh dưới tác động của lạm phát cao và tôm Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với nguồn cung cấp tôm đến từ Ecuador, Ấn Độ.
Kim ngạch xuất nhập khẩu (Export-import turnover)
Kim ngạch xuất nhập khẩu trong tiếng Anh là Export-import turnover.
Kim ngạch xuất khẩu (Export turnover) là tổng giá trị xuất khẩu của các (hoặc một) hàng hoá xuất khẩu của quốc gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kì nhất định thường là quý hoặc năm, sau đó qui đổi đồng nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định
Kim ngạch nhập khẩu (Import turnover) là tổng giá trị nhập khẩu của các (hoặc một) hàng hoá nhập khẩu vào quốc gia (hoặc một doanh nghiệp) trong một kì nhất định qui đổi đồng nhất ra một loại đơn vị tiền tệ nhất định.
Kim ngạch xuất nhập khẩu (Export-import turnover) là tổng kim ngạch nhập khẩu cộng tổng kim ngạch xuất khẩu.
Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 244,72 tỉ USD, tăng 13,8% so với năm 2017. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 69,2 tỉ USD, tăng 15,9%, chiếm 28,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 175,52 tỉ USD, tăng 12,9%, chiếm 71,7% (giảm 0,6 điểm phần trăm so với năm 2017).
Năm 2018 là năm thành công với chỉ tiêu xuất khẩu và cán cân thương mại khi tăng trưởng xuất khẩu đạt tốt với 13,8%, cao hơn chỉ tiêu đặt ra từ đầu năm. Qui mô xuất khẩu tăng mạnh, hiện nay cả nước có khoảng 26 mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỉ USD, 8 mặt hàng đạt trên 5 tỉ USD và 5 mặt hàng trên 10 tỉ USD.
Khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước tiếp tục có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tốt, đạt 69,2 tỉ USD, tăng 15,9% so với cùng kì. Nếu các năm trước, tăng trưởng xuất khẩu của khối doanh nghiệp 100% vốn trong nước thường xuyên đạt thấp hơn khối FDI thì năm 2018 đã "đảo chiều", đạt cao hơn khối FDI.
Cùng với kim ngạch xuất nhập khẩu đạt tốt, cán cân thương mại năm 2018 đã duy trì thặng dư, ước đạt 7,2 tỉ USD, cao nhất từ trước đến nay. Việc kiểm soát tốt cán cân thương mại giúp tăng nguồn cung ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại hối, ổn định cán cân thương mại thanh toán quốc tế.
Dự báo kim ngạch xuất nhập khẩu 2019
Năm 2019, Bộ Công Thương đặt mục tiêu tập trung các giải pháp đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa như phát triển sản xuất và tạo nguồn hàng chất lượng để đảm bảo qui mô xuất khẩu; phát triển và mở cửa thị trường; tổ chức tốt hoạt động xuất khẩu và liên kết chuỗi sản xuất, chế biến.
Đặc biệt, tập trung nâng cao hiệu quả kết nối, phối hợp đồng bộ với các đơn vị giải quyết vấn đề phát sinh trong thương mại quốc tế như chống trợ cấp, chống bán phá giá... Thay đổi căn bản trong xúc tiến thương mại, đi sâu vào các mặt hàng chủ lực trong từng giai đoạn chứ không làm dàn trải như hiện nay để đưa sản phẩm Việt Nam đến ngày càng nhiều thị trường trên thế giới.
(Tài liệu tham khảo: Tạp chí Tài chính)
Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 10:14 21/12/2022
Gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là một trong những chủ đề được quan tâm nhiều nhất không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Gian lận thuế dẫn đến thất thu và kế hoạch chi tiêu ngân sách nhà nước, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước, trở thành vấn đề nhức nhối của Chính phủ. Mặc dù Việt Nam đã có những nỗ lực nhất định trong vấn đề quản lý thuế nhưng qua những con số thống kê tiền thuế truy thu và phạt do doanh nghiệp khai thiếu thuế trong các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế cho thấy gian lận thuế TNDN ngày càng diễn biến tinh vi và phức tạp hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định về thuế TNDN kết hợp với thực trạng thất thu thuế TNDN ở Việt Nam những năm gần đây, nhóm tác giả Đỗ Kiều Oanh, Lại Thị Minh Trang, Nguyễn Việt Hùng và Hoàng Linh Chi đến từ Khoa Kế toán Kiểm toán – Trường ĐHKT đã chỉ ra những hạn chế trong công tác quản lý thuế TNDN tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp về công tác quản lý thuế nhằm hạn chế tình trạng gian lận thuế TNDN. Nghiên cứu được đăng toàn văn trên Tạp chí Công thương - Kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số tháng 11/2022.
Nhóm tác giả sử dụng lý thuyết trò chơi làm khung lý thuyết chính để nghiên cứu, từ đó nhận diện rõ hơn về vấn đề gian lận thuế TNDN. Lý thuyết trò chơi nghiên cứu các tình huống ra quyết định có liên quan tới nhiều người và các quyết định của mỗi người ảnh hưởng tới lợi ích và quyết định của những người khác, đây là khoa học về chiến lược, đưa ra quyết định tối ưu của các tác nhân độc lập và cạnh tranh trong một bối cảnh chiến lược. Đồng thời, nhóm tác giả tiến hành phỏng vấn chuyên gia và phát phiếu khảo sát nhân viên kế toán. Kết quả, nhóm đã nhận được những ý kiến về các hành vi gian lận thuế TNDN phổ biến hiện nay, cũng như một số đóng góp về giải pháp để hạn chế hành vi này.
Theo khảo sát, có khoảng 20% số người tham gia chương trình tập huấn của cơ quan thuế từ 5 lần trở lên, trong khi 36,7% chưa tham gia tập huấn và số người tham gia từ 1-3 lần chiếm 43,3%. Qua đó có thể thấy hiện nay các nhân viên kế toán ít quan tâm đến việc tham gia các buổi tập huấn, vì thế họ có thể không cập nhật kịp thời các văn bản thông tư, nghị định mới về thuế TNDN làm ảnh hướng đến công tác quản lý thuế. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao theo phương pháp đường thẳng lên tới 66,7%. Các doanh nghiệp đã khấu hao không đúng thời gian sử dụng của tài sản cố định và mức khấu hao qua các năm không giống nhau, mục đích để điều chỉnh chi phí tăng, giảm theo ý muốn để gian lận thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Qua khảo sát nhóm tác giả cũng đã nhận được ý kiến về một số hành vi gian lận thuế TNDN phổ biến mà kế toán viên và chuyên gia biết như:
+ Ghi nhận lãi lỗ không đúng kỳ kế toán.
+ Khấu hao tài sản cố định nhanh hơn hoặc chậm hơn với quy định.
+ Chia nhỏ hóa đơn thành nhiều hóa đơn nhỏ hơn 20 triệu đồng, ghi hình thức thanh toán là tiền mặt để được khấu trừ thuế, đồng thời tránh được việc bị kiểm soát qua tài khoản ngân hàng.
+ Sử dụng hồ sơ giả để trả lương cho những người không phải là công nhân của doanh nghiệp. Thậm chí ghi nhận trả lương cho nhân viên cao hơn lương thực trả.
+ Tính gộp các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài hạch toán các khoản chi phí cho tiêu dùng cá nhân như ô tô, điện thoại, xăng xe, ăn uống... cũng khiến cho cơ quan thuế khó xác định, phân biệt bóc tách.
+ Doanh nghiệp hạch toán và phân bổ chi phí dài hạn không đúng quy định.
+ Hạch toán giá bán không theo giá thị trường.
+ Hành vi không ghi nhận các khoản doanh thu tài chính, chuyển nhượng vốn.
+ Xác định lỗ chuyển sang không đúng quy định.
+ Xác định thời gian chuyển lỗ không đúng quy định.
Từ đó, nhóm tác giả chỉ ra những hạn chế từ công tác quản lý thuế TNDN. Đó là hạn chế trong công tác quản lý thuế, hạn chế từ những quy định pháp lý liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế TNDN và hạn chế nguồn nhân lực quản lý nền kinh tế.
Thứ nhất, tăng cường cả về chất và lượng công tác thanh kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp
Muốn hạn chế gian lận thì việc đầu tiên là phải tìm ra gian lận: từ chất lượng công tác lập kế hoạch và chuẩn bị cho công tác thanh kiểm tra. Việc lựa chọn đúng đối tượng kiểm tra thuế vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quan trọng trong việc gian lận thuế TNDN.
Cơ quan thuế nên tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại các doanh nghiệp, phải có các cuộc thanh tra thuế đột xuất và tăng cường việc kiểm tra chéo với các bên thứ ba. Hơn nữa, cần tập trung thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp, các ngành nghề, lĩnh vực thường xảy ra rủi ro lớn, các doanh nghiệp có doanh thu lớn, rủi ro cao để thực hiện xử lý kịp thời nếu có các giao dịch đáng ngờ.
Cán bộ thanh kiểm tra thuế cần nắm rõ các quy định của luật pháp về thuế, các quy định về xử phạt liên quan, trình độ kế toán, công nghệ tin học và kỹ năng thanh kiểm tra tốt. Kiểm tra thuế cần có bản lĩnh vững vàng, cần có tính liêm chính. Chế độ tiền lương và đãi ngộ của cán bộ tại các cơ quan thuế cũng cần coi trọng, là yếu tố tác động tới tính liêm chính của các cán bộ.
Thứ hai, quy định về thanh toán từng lần qua ngân hàng
Chính phủ cần đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt giữa các doanh nghiệp. Trong thời đại công nghệ 4.0, ở Việt Nam các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ thanh toán online rất tiện lợi, và các doanh nghiệpcũng đã trang bị đủ cơ sở vật chất để thực hiện các thanh toán qua ngân hàng mà không cần phải ra tận ngân hàng như trước nữa.
Thứ ba, điều chỉnh tăng mức phạt về hành vi vi phạm không tuân thủ thuế của doanh nghiệp
Ở Việt Nam, mức phạt chỉ dừng ở phạm vi hành chính (mức phạt còn thấp) do chế tài khi vi phạm quy định pháp luật thuế chưa cao nên chưa có tác dụng mạnh mẽ đến ý thức tuân thủ. Chính phủ cần tăng mức phạt đối với các hành vi gian lận của các doanh nghiệp; cho phép công khai tên những doanh nghiệp gian lận từ hai lần trở lên trên trang web của Tổng cục Thuế để giảm danh tiếng và sự uy tín của doanh nghiệp, dẫn đến những thiệt hại về kinh tế cho doanh nghiệp, lấy đó để răn đe các doanh nghiệp khác, khiến các doanh nghiệp phải cân nhắc khi đưa ra quyết định gian lận thuế.
Thứ tư, cần điều chỉnh mức thuế suất thuế TNDN một cách hợp lý
Mức thuế suất TNDN tại Việt Nam vẫn còn khá cao so với các quốc gia khác trên thế giới, do đó cần có chính sách thuế hợp lý hơn và giảm thuế theo lộ trình. Đối với các mặt hàng cần khuyến khích sản xuất thì nên giảm thuế, còn đối với mặt hàng nguy hiểm rủi ro thì phải tăng thuế.
Thứ năm, mức ưu đãi thuế ở Việt Nam tương đối cao và có phạm vi áp dụng khá rộng cả về danh mục ngành nghề ưu đãi
Chính sách ưu đãi thuế với danh mục rộng như hiện nay dễ gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ưu đãi thuế cao tương đương với việc giảm thu ngân sách nhà nước. Chính phủ trước hết cần phải rà soát, đánh giá tổng thể các chính sách ưu đãi thuế đối với các ngành nghề hiện nay để xem xét ngành nghề nào thật sự cần ưu đãi. Cơ quan chức năng cần xây dựng những chính sách ưu đãi đủ mạnh và phù hợp hơn đối với những ngành nghề cần được khuyến khích trong từng giai đoạn phát triển; đồng thời cần có lộ trình để đưa một số ngành nghề đã phát triển vững mạnh ra khỏi danh mục ưu đãi thuế, để cân bằng giữa lợi ích và chi phí ưu đãi thuế phải bỏ ra.
Thứ sáu, quy định về xuất hóa đơn GTGT
Việc gian lận thuế TNDN bị tác động rất lớn bởi yếu tố doanh thu, mà hóa đơn GTGT lại được lấy làm cơ sở xác định doanh thu kê khai thuế của doanh nghiệp. Hiện nay theo quy định của Nghị đinh 51/2010/NĐ-CP tại Điểm 1, Điều 16: “bán hàng hóa, dịch vụ có tổng giá trị thanh toán dưới 200.000 đồng mỗi lần thì không cần lập hóa đơn trừ trường hợp người mua yêu cầu nhận hóa đơn”, do đó nên giảm mức quy định hoặc bắt buộc phải xuất hóa đơn trong mọi giao dịch bán hàng hóa dịch vụ.
Thứ bảy, mở rộng cơ sở đánh thuế
Bổ sung thêm các quy định để bao quát được các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong kinh tế thị trường hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế như: Quy định đánh thuế đối với hoạt động đa cấp, cung cấp dịch vụ qua thương mại điện tử, bán hàng qua mạng…
Yếu tố lỗ từ hoạt động kinh doanh là cơ hội để các doanh nghiệp tận dụng nhằm tránh né việc nộp thuế TNDN. Việt Nam nên tham khảo quy định về chuyển lỗ của một số quốc gia có nền kinh tế tương đối ổn định và mức GDP bình quân cao ở các châu lục khác nhau để việc chuyển lỗ không được tận dụng nhằm mục đích gian lận thuế TNDN.
Thứ chín, đẩy mạnh việc giáo dục
Đẩy mạnh việc giáo dục sinh viên, định hướng tư tưởng không nên và không được gian lận thuế ngay từ khi còn ở ghế nhà trường. Đây sẽ là biện pháp mang lại hiệu quả rất cao trong tương lai khi mà thế hệ những sinh viên đó tham gia vào thị trường lao động với suy nghĩ, tư tưởng không gian lận thuế của Nhà nước.
Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 11:08 29/11/2021
Gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) luôn là một trong những chủ đề được quan tâm nhiều nhất không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Việc gian lận thuế dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước (NSNN), ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu NSNN của chính phủ, thậm chí gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho quốc gia. Thực trạng này đã và đang trở thành vấn đề nhức nhối của chính phủ các nước trên thế giới. Mặc dù Việt Nam đã có những nỗ lực nhất định trong vấn đề quản lý thuế nhưng qua số liệu thống kê tiền thuế truy thu và phạt do doanh nghiệp khai thiếu thuế trong các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế cho thấy gian lận thuế TNDN ngày càng diễn biến tinh vi và phức tạp. Nhóm nghiên cứu của cô và trò Khoa Kế toán Kiểm toán đã có một số kết luận về nguyên nhân chủ yếu của hành vi trên và đưa ra một số gợi ý chính sách.
Tình trạng doanh nghiệp bán hàng không xuất hóa đơn diễn ra rất phổ biến. Việc quy định xuất hóa đơn kèm hàng bán chưa thực sự là đòi hỏi bắt buộc đối với doanh nghiệp đã tạo ra kẽ hở cho doanh nghiệp kê khai giảm doanh thu bán hàng, từ đó giảm lợi nhuận và tránh được thuế TNDN. Bên cạnh đó, khi xuất hóa đơn, doanh nghiệp kê khai giảm giá trị hàng bán thấp hơn so với giá trị thực tế mà khách hàng thanh toán cũng là hành vi trốn thuế của doanh nghiệp và của chính khách hàng, chủ yếu đối với tài sản có giá trị như ô tô, nhà, đất, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Theo thống kê của Cục Thương mại Điện tử và Công nghệ Thông tin (Bộ Công Thương), tổng doanh thu lĩnh vực thương mại điện tử và công nghệ thông tin năm 2013 đạt 2,2 tỷ USD, năm 2014 đạt khoảng 4 tỷ USD và năm 2015 đạt khoảng 6 tỷ USD. Việc cung cấp dịch vụ tìm kiếm thông minh và quảng cáo trực tuyến (Google, Yahoo, Bing, YouTube, Facebook…) đã mang lại lợi nhuận “béo bở” cho các ông chủ sở hữu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này thường không kê khai đủ hoặc kê khai sai thuế GTGT; không kê khai thuế nhà thầu đối với dịch vụ của một số công ty đa quốc gia như Google, Yahoo… có phát sinh dịch vụ ở Việt Nam. Điều này làm thất thu thuế cho ngân sách, đồng thời gây ra sự thiếu minh bạch, thiếu tính chính xác trong nền kinh tế phát triển bền vững.
Việc các doanh nghiệp kê khai lỗ nhiều năm liên tiếp để trốn đóng thuế TNDN cũng khá phổ biến, điển hình là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Thống kê cho thấy, cả nước có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp. Điển hình như tại Thành phố Hồ Chí Minh có tới gần 60% trong số trên 3.500 doanh nghiệp FDI thường xuyên kê khai lỗ trong nhiều năm; tương tự tại tỉnh Lâm Đồng với 104/111 doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ liên tục; tỉnh Bình Dương (một trong những tỉnh thu hút được nhiều dự án FDI) cũng có đến 50% doanh nghiệp FDI báo cáo lỗ từ năm 2006-2013.
Hầu hết các hành vi trốn thuế của doanh nghiệp FDI thực hiện thông qua việc kê khai chi phí đầu vào cao, đặc biệt đối với nguyên liệu nhập khẩu, trong khi giá bán xuất khẩu thấp hơn nhiều, từ đó tạo ra lỗ nhưng thực chất là dòng tiền vẫn chuyển động giữa các công ty thành viên, công ty mẹ - con.
Trong Bảng xếp hạng 1.000 doanh nghiệp nộp thuế TNDN lớn nhất Việt Nam năm 2015 được Vietnam Report công bố cho thấy có một nghịch lý là khối doanh nghiệp FDI xuất hiện nhiều nhất (46%) và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong quy mô nền kinh tế Việt Nam nhưng tỷ lệ đóng góp vào tổng thuế TNDN của toàn bảng chỉ ở mức 37%.
Mặc dù kê khai lỗ nhiều năm nhưng các doanh nghiệp FDI vẫn tăng cường các chương trình quảng bá, khuyếch trương và mở rộng quy mô kinh doanh. Nhằm ngăn chặn các hiện tượng trên, Bộ Tài chính đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp tập trung đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp FDI báo lỗ nhiều năm liền và có dấu hiệu chuyển giá.
Tình trạng trốn thuế còn diễn ra phổ biến ngay ở các doanh nghiệp trong nước thông qua hình thức thành lập các công ty con, công ty thành viên hoặc mua bán hóa đơn khống từ các doanh nghiệp khác.
Theo Công an Thành phố Hà Nội, năm 2015 đã phát hiện đối tượng thành lập 16 công ty với các ngành nghề khác nhau, thuê in hóa đơn để bán cho hơn 2.000 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp với giá trị lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Đặc biệt, một điểm đáng chú ý là một số doanh nghiệp có nợ thuế hoặc bị truy thu số thuế lớn thì họ bỏ địa điểm kinh doanh cũ, sau đó thành lập doanh nghiệp khác.
Thứ nhất, tăng cường cả về chất và lượng công tác thanh kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp.
Muốn hạn chế gian lận thì việc đầu tiên là phải tìm ra gian lận: từ chất lượng công tác lập kế hoạch và chuẩn bị cho công tác thanh kiểm tra. Việc lựa chọn đúng đối tượng kiểm tra thuế, từ đó đưa vào kế hoạch kiểm tra có ý nghĩa quan trọng cho giai đoạn tiến hành kiểm tra. Nếu công tác chuẩn bị càng kỹ lưỡng, thu thập được càng nhiều thông tin về đối tượng kiểm tra thì sẽ thu được hiệu quả cao, đồng nghĩa với việc hạn chế gian lận thuế TNDN. Có những doanh nghiệp hàng năm đều mời đơn vị kiểm toán nhưng lại có những doanh nghiệp hàng chục năm không kiểm toán và có thái độ bất hợp tác. Đây là đối tượng mà cơ quan thuế nên đặc biệt quan tâm và thanh tra thường xuyên.
Bên cạnh đó, cơ quan thuế nên tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại các doanh nghiệp, phải có các cuộc thanh tra thuế đột xuất và tăng cường việc kiểm tra chéo với các bên thứ ba. Các đơn vị khi đã được kiểm tra rồi thì thường chủ quan là sẽ không kiểm tra lại, do đó nếu thanh tra thuế đột xuất sẽ dễ phát hiện ra các gian lận mà doanh nghiệp cố ý che giấu.
Cơ quan thuế cần tập trung thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp, các ngành nghề, lĩnh vực thường xảy ra rủi ro lớn, các doanh nghiệp có doanh thu lớn, rủi ro cao qua các hành vi vi phạm thường gặp để đảm bảo tăng thu qua công tác thanh tra, kiểm tra. Tăng cường phối hợp với cơ quan chức năng, thực hiện xử lý kịp thời thông tin liên quan đến giao dịch đáng ngờ do cơ quan thanh tra giám sát (Ngân hàng Nhà nước) chuyển đến; thông tin do cơ quan công an, hải quan cung cấp liên quan đến các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến công tác quản lý thuế; rà soát đối chiếu thông tin về thu nhập từ nước ngoài qua trao đổi thông tin thuế quốc tế với tờ khai thuế trên hệ thống để phát hiện và thực hiện truy thu nếu có.
Trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ kiểm tra thuế càng cao thì chất lượng công tác thanh kiểm tra càng tốt và ngược lại. Cán bộ thanh kiểm tra thuế nếu hiểu biết, nắm rõ các quy định của luật pháp về thuế và các quy định về xử phạt liên quan đến các hành vi trái pháp luật, có trình độ kế toán tốt, có kỹ năng thanh kiểm tra tốt thì hiệu quả công việc càng cao. Đặc biệt là trong thời đại công nghệ thông tin như hiện nay, việc áp dụng hóa đơn điện tử ngày càng rộng rãi ở các doanh nghiệp thì các cán bộ cần trang bị trình độ về công nghệ tin học đủ tốt. Ngoài ra, tính liêm chính, đạo đức của cán bộ thanh kiểm tra là nhân tố quan trọng. Kiểm tra thuế cần phải có bản lĩnh vững vàng, không bị cám dỗ bởi vật chất. Chế độ tiền lương và thu nhập của cán bộ tại các cơ quan thuế cũng là một trong những yếu tố tác động tới tính liêm chính của cán bộ. Chế độ đãi ngộ thỏa đáng sẽ tạo động lực làm việc hiệu quả hơn và ít bị lung lay bởi vật chất hơn. Ngoài ra, các cơ quan thuế cần tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo để nâng cao kỹ năng và đạo đức của các cán bộ tại đơn vị.
Thứ hai, quy định về thanh toán từng lần qua ngân hàng.
Chính phủ cần đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt giữa các doanh nghiệp, đây là một trong những biện pháp quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế của cơ quan thuế đối với các doanh nghiệp. Trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay, ở Việt Nam các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến rất tiện lợi, và các doanh nghiệp cũng đã trang bị đủ cơ sở vật chất để thực hiện các thanh toán qua ngân hàng mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng như trước nữa.
Thứ ba, điều chỉnh tăng mức phạt về hành vi vi phạm không tuân thủ thuế của doanh nghiệp.
Hiện nay ở Việt Nam, mức phạt chỉ dừng ở phạm vi hành chính (mức phạt còn thấp) do chế tài khi vi phạm quy định pháp luật thuế chưa cao, chưa có tác động mạnh mẽ đến ý thức tuân thủ. Vì thế, Chính phủ cần tăng mức phạt đối với các hành vi gian lận của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nhiều lần kiểm tra không minh bạch có thể tước giấy phép kinh doanh, nghiêm cấm chủ doanh nghiệp đứng tên bất cứ doanh nghiệp nào khác. Ngoài điều chỉnh tăng mức phạt, Chính phủ nên cho phép công khai tên những doanh nghiệp gian lận từ hai lần trở lên trên trang web của Tổng cục Thuế nhằm răn đe các doanh nghiệp khác, khiến các doanh nghiệp sẽ phải cân nhắc khi đưa ra quyết định gian lận thuế.
Thứ tư, cần điều chỉnh mức thuế suất thuế TNDN một cách hợp lý.
Mức thuế suất TNDN tại Việt Nam vẫn còn khá cao so với các quốc gia khác trên thế giới. Do đó, cần có chính sách thuế hợp lý hơn và giảm thuế theo lộ trình. Đối với các mặt hàng cần khuyến khích sản xuất thì nên giảm thuế, còn đối với mặt hàng nguy hiểm, rủi ro thì phải tăng thuế.
Tên đề tài: Thực trạng gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
Thời gian thực hiện : 12/2019 - 4/2020
Nhóm sinh viên thực hiện: Trần Đình Quân, Đinh Thị Xuân Mai, Nguyễn Thiên Hương - Lớp QH-2017-E Kế toán.
Giảng viên hướng dẫn: TS. Đỗ Kiều Oanh
Đề tài đã bảo vệ tại Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên Khoa Kế toán Kiểm toán năm 2020 và có 1 bài đăng kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Tăng trưởng xanh: Quản trị và phát triển doanh nghiệp” (11/2020)
Trường Đại học Kinh tế - ĐHQGHN 10:14 21/12/2022
Gian lận thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là một trong những chủ đề được quan tâm nhiều nhất không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia trên thế giới. Gian lận thuế dẫn đến thất thu và kế hoạch chi tiêu ngân sách nhà nước, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho đất nước, trở thành vấn đề nhức nhối của Chính phủ. Mặc dù Việt Nam đã có những nỗ lực nhất định trong vấn đề quản lý thuế nhưng qua những con số thống kê tiền thuế truy thu và phạt do doanh nghiệp khai thiếu thuế trong các cuộc thanh tra, kiểm tra thuế cho thấy gian lận thuế TNDN ngày càng diễn biến tinh vi và phức tạp hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định về thuế TNDN kết hợp với thực trạng thất thu thuế TNDN ở Việt Nam những năm gần đây, nhóm tác giả Đỗ Kiều Oanh, Lại Thị Minh Trang, Nguyễn Việt Hùng và Hoàng Linh Chi đến từ Khoa Kế toán Kiểm toán – Trường ĐHKT đã chỉ ra những hạn chế trong công tác quản lý thuế TNDN tại Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp về công tác quản lý thuế nhằm hạn chế tình trạng gian lận thuế TNDN. Nghiên cứu được đăng toàn văn trên Tạp chí Công thương - Kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số tháng 11/2022.
Nhóm tác giả sử dụng lý thuyết trò chơi làm khung lý thuyết chính để nghiên cứu, từ đó nhận diện rõ hơn về vấn đề gian lận thuế TNDN. Lý thuyết trò chơi nghiên cứu các tình huống ra quyết định có liên quan tới nhiều người và các quyết định của mỗi người ảnh hưởng tới lợi ích và quyết định của những người khác, đây là khoa học về chiến lược, đưa ra quyết định tối ưu của các tác nhân độc lập và cạnh tranh trong một bối cảnh chiến lược. Đồng thời, nhóm tác giả tiến hành phỏng vấn chuyên gia và phát phiếu khảo sát nhân viên kế toán. Kết quả, nhóm đã nhận được những ý kiến về các hành vi gian lận thuế TNDN phổ biến hiện nay, cũng như một số đóng góp về giải pháp để hạn chế hành vi này.
Theo khảo sát, có khoảng 20% số người tham gia chương trình tập huấn của cơ quan thuế từ 5 lần trở lên, trong khi 36,7% chưa tham gia tập huấn và số người tham gia từ 1-3 lần chiếm 43,3%. Qua đó có thể thấy hiện nay các nhân viên kế toán ít quan tâm đến việc tham gia các buổi tập huấn, vì thế họ có thể không cập nhật kịp thời các văn bản thông tư, nghị định mới về thuế TNDN làm ảnh hướng đến công tác quản lý thuế. Tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao theo phương pháp đường thẳng lên tới 66,7%. Các doanh nghiệp đã khấu hao không đúng thời gian sử dụng của tài sản cố định và mức khấu hao qua các năm không giống nhau, mục đích để điều chỉnh chi phí tăng, giảm theo ý muốn để gian lận thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Qua khảo sát nhóm tác giả cũng đã nhận được ý kiến về một số hành vi gian lận thuế TNDN phổ biến mà kế toán viên và chuyên gia biết như:
+ Ghi nhận lãi lỗ không đúng kỳ kế toán.
+ Khấu hao tài sản cố định nhanh hơn hoặc chậm hơn với quy định.
+ Chia nhỏ hóa đơn thành nhiều hóa đơn nhỏ hơn 20 triệu đồng, ghi hình thức thanh toán là tiền mặt để được khấu trừ thuế, đồng thời tránh được việc bị kiểm soát qua tài khoản ngân hàng.
+ Sử dụng hồ sơ giả để trả lương cho những người không phải là công nhân của doanh nghiệp. Thậm chí ghi nhận trả lương cho nhân viên cao hơn lương thực trả.
+ Tính gộp các khoản chi phí dịch vụ mua ngoài hạch toán các khoản chi phí cho tiêu dùng cá nhân như ô tô, điện thoại, xăng xe, ăn uống... cũng khiến cho cơ quan thuế khó xác định, phân biệt bóc tách.
+ Doanh nghiệp hạch toán và phân bổ chi phí dài hạn không đúng quy định.
+ Hạch toán giá bán không theo giá thị trường.
+ Hành vi không ghi nhận các khoản doanh thu tài chính, chuyển nhượng vốn.
+ Xác định lỗ chuyển sang không đúng quy định.
+ Xác định thời gian chuyển lỗ không đúng quy định.
Từ đó, nhóm tác giả chỉ ra những hạn chế từ công tác quản lý thuế TNDN. Đó là hạn chế trong công tác quản lý thuế, hạn chế từ những quy định pháp lý liên quan đến nghĩa vụ nộp thuế TNDN và hạn chế nguồn nhân lực quản lý nền kinh tế.
Thứ nhất, tăng cường cả về chất và lượng công tác thanh kiểm tra thuế tại các doanh nghiệp
Muốn hạn chế gian lận thì việc đầu tiên là phải tìm ra gian lận: từ chất lượng công tác lập kế hoạch và chuẩn bị cho công tác thanh kiểm tra. Việc lựa chọn đúng đối tượng kiểm tra thuế vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quan trọng trong việc gian lận thuế TNDN.
Cơ quan thuế nên tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra thuế tại các doanh nghiệp, phải có các cuộc thanh tra thuế đột xuất và tăng cường việc kiểm tra chéo với các bên thứ ba. Hơn nữa, cần tập trung thanh tra, kiểm tra đối với các doanh nghiệp, các ngành nghề, lĩnh vực thường xảy ra rủi ro lớn, các doanh nghiệp có doanh thu lớn, rủi ro cao để thực hiện xử lý kịp thời nếu có các giao dịch đáng ngờ.
Cán bộ thanh kiểm tra thuế cần nắm rõ các quy định của luật pháp về thuế, các quy định về xử phạt liên quan, trình độ kế toán, công nghệ tin học và kỹ năng thanh kiểm tra tốt. Kiểm tra thuế cần có bản lĩnh vững vàng, cần có tính liêm chính. Chế độ tiền lương và đãi ngộ của cán bộ tại các cơ quan thuế cũng cần coi trọng, là yếu tố tác động tới tính liêm chính của các cán bộ.
Thứ hai, quy định về thanh toán từng lần qua ngân hàng
Chính phủ cần đẩy mạnh việc thanh toán không dùng tiền mặt giữa các doanh nghiệp. Trong thời đại công nghệ 4.0, ở Việt Nam các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ thanh toán online rất tiện lợi, và các doanh nghiệpcũng đã trang bị đủ cơ sở vật chất để thực hiện các thanh toán qua ngân hàng mà không cần phải ra tận ngân hàng như trước nữa.
Thứ ba, điều chỉnh tăng mức phạt về hành vi vi phạm không tuân thủ thuế của doanh nghiệp
Ở Việt Nam, mức phạt chỉ dừng ở phạm vi hành chính (mức phạt còn thấp) do chế tài khi vi phạm quy định pháp luật thuế chưa cao nên chưa có tác dụng mạnh mẽ đến ý thức tuân thủ. Chính phủ cần tăng mức phạt đối với các hành vi gian lận của các doanh nghiệp; cho phép công khai tên những doanh nghiệp gian lận từ hai lần trở lên trên trang web của Tổng cục Thuế để giảm danh tiếng và sự uy tín của doanh nghiệp, dẫn đến những thiệt hại về kinh tế cho doanh nghiệp, lấy đó để răn đe các doanh nghiệp khác, khiến các doanh nghiệp phải cân nhắc khi đưa ra quyết định gian lận thuế.
Thứ tư, cần điều chỉnh mức thuế suất thuế TNDN một cách hợp lý
Mức thuế suất TNDN tại Việt Nam vẫn còn khá cao so với các quốc gia khác trên thế giới, do đó cần có chính sách thuế hợp lý hơn và giảm thuế theo lộ trình. Đối với các mặt hàng cần khuyến khích sản xuất thì nên giảm thuế, còn đối với mặt hàng nguy hiểm rủi ro thì phải tăng thuế.
Thứ năm, mức ưu đãi thuế ở Việt Nam tương đối cao và có phạm vi áp dụng khá rộng cả về danh mục ngành nghề ưu đãi
Chính sách ưu đãi thuế với danh mục rộng như hiện nay dễ gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Ưu đãi thuế cao tương đương với việc giảm thu ngân sách nhà nước. Chính phủ trước hết cần phải rà soát, đánh giá tổng thể các chính sách ưu đãi thuế đối với các ngành nghề hiện nay để xem xét ngành nghề nào thật sự cần ưu đãi. Cơ quan chức năng cần xây dựng những chính sách ưu đãi đủ mạnh và phù hợp hơn đối với những ngành nghề cần được khuyến khích trong từng giai đoạn phát triển; đồng thời cần có lộ trình để đưa một số ngành nghề đã phát triển vững mạnh ra khỏi danh mục ưu đãi thuế, để cân bằng giữa lợi ích và chi phí ưu đãi thuế phải bỏ ra.
Thứ sáu, quy định về xuất hóa đơn GTGT
Việc gian lận thuế TNDN bị tác động rất lớn bởi yếu tố doanh thu, mà hóa đơn GTGT lại được lấy làm cơ sở xác định doanh thu kê khai thuế của doanh nghiệp. Hiện nay theo quy định của Nghị đinh 51/2010/NĐ-CP tại Điểm 1, Điều 16: “bán hàng hóa, dịch vụ có tổng giá trị thanh toán dưới 200.000 đồng mỗi lần thì không cần lập hóa đơn trừ trường hợp người mua yêu cầu nhận hóa đơn”, do đó nên giảm mức quy định hoặc bắt buộc phải xuất hóa đơn trong mọi giao dịch bán hàng hóa dịch vụ.
Thứ bảy, mở rộng cơ sở đánh thuế
Bổ sung thêm các quy định để bao quát được các hoạt động kinh tế mới phát sinh trong kinh tế thị trường hội nhập, phù hợp với thông lệ quốc tế như: Quy định đánh thuế đối với hoạt động đa cấp, cung cấp dịch vụ qua thương mại điện tử, bán hàng qua mạng…
Yếu tố lỗ từ hoạt động kinh doanh là cơ hội để các doanh nghiệp tận dụng nhằm tránh né việc nộp thuế TNDN. Việt Nam nên tham khảo quy định về chuyển lỗ của một số quốc gia có nền kinh tế tương đối ổn định và mức GDP bình quân cao ở các châu lục khác nhau để việc chuyển lỗ không được tận dụng nhằm mục đích gian lận thuế TNDN.
Thứ chín, đẩy mạnh việc giáo dục
Đẩy mạnh việc giáo dục sinh viên, định hướng tư tưởng không nên và không được gian lận thuế ngay từ khi còn ở ghế nhà trường. Đây sẽ là biện pháp mang lại hiệu quả rất cao trong tương lai khi mà thế hệ những sinh viên đó tham gia vào thị trường lao động với suy nghĩ, tư tưởng không gian lận thuế của Nhà nước.